Con cái và tài sản là hai yêu cầu thường xuyên diễn ra khi tranh chấp trong những vụ án ly hôn. Vậy khi hôn nhân tan vỡ, ai được quyền nuôi con và quy định pháp luật về nghĩa vụ cấp dưỡng đối với người không trực tiếp nuôi con như thế nào? Có thể giành quyền nuôi tất cả các con khi ly hôn được không? Hãy cùng Luật sư Quảng Ninh tìm hiểu quy định về vấn đề này tại nội dung bài viết dưới đây. Hi vọng bài viết mang lại nhiều điều bổ ích đến bạn.
Căn cứ pháp lý
Luật Hôn nhân và gia đình 2014
Cha mẹ được giành quyền nuôi con trong các trường hợp nào?
Khi ly hôn, Tòa án luôn dựa trên nguyên tắc sự thỏa thuận của hai vợ chồng để làm căn cứ xác định quyền nuôi các con. Trong trường hợp hai bên vợ chồng thuận tình ly hôn, vấn đề nuôi con có thể thỏa thuận về người trực tiếp nuôi, quyền và nghĩa vụ của mỗi bên, trách nhiệm cấp dưỡng trong trường hợp không trực tiếp nuôi con.
Tuy nhiên, theo quy định pháp luật về Hôn nhân gia đình không phải trường hợp nào cha mẹ cũng xảy ra vấn đề tranh giành nuôi con. Cha, mẹ có quyền và nghĩa vụ nuôi con đối với các trường hợp sau đây:
+ Trường hợp người con đó chưa thành niên;
+ Con đã thành niên nhưng mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi bản thân.
Khi hai bên vợ chồng không tự thỏa thuận được vấn đề nuôi con thì Tòa án sẽ căn cứ vào các điều kiện tốt nhất như: điều kiện về kinh tế, giáo dục, thời gian dành cho các con,… để chỉ định người trực tiếp được quyền nuôi con.
Khi hôn nhân tan vỡ, ai được quyền nuôi con?
Để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các bên thì Luật hôn nhân và gia đình 2014 quy định cụ thể về việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn tại Điều 81, theo đó:
1. Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan.
2. Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con. Trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.
3. Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi. Trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con.
Căn cứ vào điều luật này chúng ta có thể nhận thấy pháp luật tôn trọng sự tự nguyện thỏa thuận của hai vợ chồng.
Như vậy khi tiến hành ly hôn thì hai vợ chồng cần tiến hành thỏa thuận quyền nuôi con. Tòa án chỉ giải quyết tranh chấp trong trường hợp hai bên không thể thương lượng, thỏa thuận được cũng như Tòa án dựa vào Luật Hôn nhân và gia đình, quy định các nguyên tắc để giải quyết tranh chấp về quyền nuôi con sau khi ly hôn.
Nguyên tắc giải quyết tranh chấp về quyền nuôi con sau ly hôn
Nguyên tắc 1: Con dưới 36 tháng tuổi sẽ được ưu tiên quyền nuôi con thuộc về mẹ.
Nguyễn tắc 2: Con từ 3 tuổi đến 7 tuổi thì quyền nuôi con của cha và mẹ ngang bằng nhau. Tòa án sẽ quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào các điều kiện: Vật chất (điều kiện kinh tế, gia sản, thu nhập, tài sản, chỗ ở,…); Tinh thần (thời gian chăm sóc, giáo dục, dạy dỗ con, thời gian vui chơi với con, trình độ học vấn, nhân cách đạo đức,…)
Nguyên tắc 3: Con trên 7 tuổi thì Tòa án phải xem xét nguyện vọng của trẻ và ghi nhận bằng văn bản.
Cần lưu ý: đối với trường hợp con dưới 36 tháng tuổi thì mẹ là trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con. Nhưng khi con trên 36 tháng tuổi thì cha sẽ có quyền yêu cầu Tòa án thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn trong một số trường hợp cụ thể.
Ngoài ra, trong trường hợp xét thấy cả cha và mẹ đều không đủ điều kiện trực tiếp nuôi con thì Tòa án quyết định giao con cho người giám hộ, trong đó bao gồm:
– Người giám hộ đương nhiên theo thứ tự sau:
+ Anh ruột là anh cả hoặc chị ruột là chị cả là người giám hộ;
Nếu anh cả hoặc chị cả không có đủ điều kiện làm người giám hộ thì anh ruột hoặc chị ruột tiếp theo là người giám hộ (trừ trường hợp có thỏa thuận anh ruột hoặc chị ruột khác là người giám hộ).
+ Trường hợp không có anh, chị ruột thì ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại là người giám hộ hoặc những người này thỏa thuận cử một hoặc một số người trong số họ là người giám hộ.
+ Trường hợp không có người giám hộ như các đối tượng nêu trên thì bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột hoặc dì ruột là người giám hộ.
– Người giám hộ được cử, chỉ định:
+ Trường hợp không có người giám hộ đương nhiên thì UBND cấp xã nơi cư trú của người được giám hộ có trách nhiệm cử người giám hộ.
+ Trường hợp có tranh chấp giữa những người giám hộ đương nhiên về người giám hộ hoặc tranh chấp về việc cử người giám hộ thì Tòa án chỉ định người giám hộ.
Lưu ý: cử, chỉ định người giám hộ cho con từ đủ 06 (sáu) tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.
Giành quyền nuôi cả 02 con khi ly hôn?
Trên thực tế, khi nói đến Quyền nuôi con khi ly hôn, Tòa án trước hết ưu tiên sự thỏa thuận của cha mẹ về người trực tiếp nuôi con, quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đối với con. Tuy nhiên, không phải lúc nào vợ chồng cũng có thể thỏa thuận được vấn đề này và nhiều cha, mẹ muốn được giành quyền nuôi hết các con.
Trường hợp khi cha mẹ không thỏa thuận được thì Tòa án sẽ quyết định giao con cho người trực tiếp nuôi trên cơ sở xem xét đảm bảo người đó đáp ứng đầy đủ mọi quyền lợi tốt nhất cho con. Ngoài ra, còn căn cứ dựa trên các yếu tố:
+ Nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải hỏi xem xét nguyện vọng của con (nhưng không mang yếu tố quyết định);
+ Con dưới 36 tháng tuổi thì sẽ được giao trực tiếp cho mẹ nuôi trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con hoặc cha mẹ có sự thỏa thuận khác.
Đối với trường hợp gia đình có 02 con thì Tòa án thường sẽ giao cho cha, mẹ mỗi bên nuôi một con sau khi xem xét các điều kiện của cả 02 bên. Tuy nhiên, khi cha hoặc mẹ muốn được giành nuôi cả 02 con thì cần chứng minh trước Tòa bản thân có đủ các điều kiện tốt nhất cho sự phát triển của con.
+ Về điều kiện kinh tế: Chứng minh thông qua các điều kiện về chỗ ở, mức thu nhập, sinh hoạt,… Tức là chứng minh có chỗ ở ổn định, thường xuyên sinh sống tại địa chỉ đó sau khi ly hôn. Chứng minh thu nhập qua công việc hiện tại đang làm, mức thu nhập thông qua bảng lương hoặc xác nhận của cơ quan, đơn vị đang công tác có đủ để chăm sóc, nuôi dưỡng các con.
Bên nào chứng minh được các điều kiện có ưu thế hơn thì sẽ giành được quyền ưu tiên hơn trước Tòa để giành quyền nuôi con
+ Về điều kiện tinh thần: Cần chứng minh các điều kiện về thời gian chăm sóc, nuôi dưỡng, dạy dỗ, vui chơi với các con. Đồng thời, chứng minh bản thân có đủ nhân cách đạo đức tốt thể hiện thông qua lối sống lành mạnh, tích cực; cách chăm sóc con cái; không có hành vi bạo lực với các con,…
+ Ngoài ra, một bên có thể chứng minh được các điều kiện bất lợi, ví dụ như: bên kia có hành vi ngoại tình, không có việc làm, chỗ ở ổn định, thường xuyên rựu chè, cờ bạc, không dành thời gian cho con,…
Theo đó, với các tiêu chí này, Tòa án sẽ tiến hành xem xét, phân tích đánh giá dựa trên cơ sở đảm bảo các điều kiện tốt nhất cho sự phát triển của trẻ để quyết định người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn.
Nghĩa vụ cấp dưỡng con sau ly hôn thuộc về ai?
Căn cứ Điều 58 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định về quyền, nghĩa vụ của cha mẹ và con sau khi ly hôn như sau:
“Điều 58. Quyền, nghĩa vụ của cha mẹ và con sau khi ly hôn
Việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn được áp dụng theo quy định tại các điều 81, 82, 83 và 84 của Luật này.”
Căn cứ Điều 82 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định về nghĩa vụ, quyền của cha, mẹ không trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn như sau:
– Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ tôn trọng quyền của con được sống chung với người trực tiếp nuôi.
– Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con.
– Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.
Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.
Căn cứ Mục 11 Nghị quyết 02/2000/NQ-HĐTP quy định về việc trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con sau khi ly hôn như sau:
– Người không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Đây là nghĩa vụ của cha, mẹ; do đó, không phân biệt người trực tiếp nuôi con có khả năng kinh tế hay không, người không trực tiếp nuôi con vẫn phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.
– Trong trường hợp người trực tiếp nuôi con không yêu cầu người không trực tiếp nuôi con cấp dưỡng vì lý do nào đó thì Toà án cần giải thích cho họ hiểu rằng việc yêu cầu cấp dưỡng nuôi con là quyền lợi của con để họ biết nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của con. Nếu xét thấy việc họ không yêu cầu cấp dưỡng là tự nguyện, họ có đầy đủ khả năng, điều kiện nuôi dưỡng con thì Toà án không buộc bên kia phải cấp dưỡng nuôi con.
Như vậy, người không trực tiếp nuôi con phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Trong trường hợp người trực tiếp nuôi con có khả năng, điều kiện và không cần cầu cấp dưỡng cho con thì không phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nữa.
Thông tin liên hệ Luật sư Quảng Ninh
Trên đây là toàn bộ nội dung tư vấn của chúng tôi về vấn đề “Năm 2022 khi hôn nhân tan vỡ, ai được quyền nuôi con?″ . Mọi câu hỏi về thủ tục pháp lý có liên quan như Đăng ký bảo hộ thương hiệu, đăng ký bảo hộ logo độc quyền hoặc sử dụng dịch vụ bảo hộ nhãn hiệu độc quyền, Dịch vụ tư vấn thủ tục đấu giá quyền sử dụng đất, Dịch vụ tư vấn giải quyết tranh chấp về thu hồi bồi thường đất, Mã số định danh cá nhân là gì… Quý khách vui lòng liên hệ Luật Sư Quảng Ninh để được hỗ trợ, giải đáp.
Liên hệ hotline: 0833.102.102 .
Mời bạn xem thêm bài viết:
- Hướng dẫn soạn thảo đơn mẫu ký sự tình tại Quảng Ninh năm 2022
- Dịch vụ tư vấn giải quyết tranh chấp nhận quyền sở hữu nhà tại Quảng Ninh
- Mẫu đồng mua bán nhà, công trình xây dựng có sẵn tại Quảng Ninh năm 2022
Câu hỏi thường gặp
Tại Điều 51 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 thì:
“Điều 51. Quyền yêu cầu giải quyết ly hôn
1. Vợ, chồng hoặc cả hai người có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn.
2. Cha, mẹ, người thân thích khác có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn khi một bên vợ, chồng do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình, đồng thời là nạn nhân của bạo lực gia đình do chồng, vợ của họ gây ra làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của họ.
3. Chồng không có quyền yêu cầu ly hôn trong trường hợp vợ đang có thai, sinh con hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi.”
Việc hạn chế quyền của cha, mẹ với con chưa thành niên được quy định cụ thể tại khoản 1 Điều 85 Luật Hôn nhân và Gia đình, gồm:
– Người bị kết án về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con;
– Người có hành vi vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.
– Người phá tán tài sản của con.
– Người có lối sống đồi trụy.
– Người xúi giục, ép buộc con là điều trái pháp luật, trái đạo đức xã hội.
Cấp dưỡng tuy là nghĩa vụ được quy định trong Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; nhưng pháp luật vẫn tôn trọng quyền thỏa thuận của các bên về mức cấp dưỡng hay nghĩa vụ cấp dưỡng. Mặc dù không nêu quy định cụ thể về việc nếu vợ và chồng khi ly hôn nhận nuôi con nhưng thống nhất bên còn lại không cần cấp dưỡng; trên thực tế Tòa án có thể chấp nhận hay không chấp nhận thỏa thuận của các bên về việc người còn lại không phải cấp dưỡng.