Theo quy định pháp luật, khi tham gia vào các phiên tòa xét xử vụ án hình sự, dân sự hay vụ án hành chính sẽ đều phải tuân thủ nghiêm chỉnh các quy tắc tại phiên tòa. Vậy quy định pháp luật về mức phạt khi không được phép Livestream, ghi âm, ghi hình phiên tòa hiện nay như thế nào? Mức xử phạt đối với các đương sự khi tham gia phiên tòa có khác với mức xử phạt đối với nhà báo không? Hãy cùng Luật sư Quảng Ninh tìm hiểu quy định pháp luật về vấn đề này tại nội dung bài viết dưới đây. Hi vọng bài viết mang lại nhiều điều bổ ích đến bạn.
Căn cứ pháp lý
- Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015
- Nghị định số 15/2020/NĐ-CP
Mức phạt khi Livestream, ghi âm, ghi hình phiên tòa năm 2022
Đối với các đương sự tham gia phiên Tòa
Theo quy định thì các đương sự khi tham gia phiên Tòa xét xử cần phải tuân thủ một cách nghiêm chỉnh các quy tắc tại phiên Tòa theo sự điều hành và phân công của Thẩm phán chủ tọa phiên Tòa. Những quy tắc này sẽ được quy định cụ thể tại Bộ luật tố tụng dân sự, Bộ luật tố tụng hình sự. Đối với hành vi ghi âm, ghi hình tại phiên Tòa thì hiện tại Khoản 4 Điều 153 Luật tố tụng hành chính năm 2015 và Khoản 4 Điều 234 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 đã có quy định:
“Nhà báo hoặc những người tham gia tố tụng tại phiên Tòa khi ghi âm, ghi hình Hội đồng xét xử thì phải được sự đồng ý của Hội đồng xét xử”
Theo đó, thì việc các đương sự tự ý ghi âm, ghi hình trong phiên Tòa là hành vi vi phạm quy tắc tại phiên Tòa. Mặc dù quy định đây là hành vi vi phạm quy tắc xét xử tuy nhiên tại thời điểm hiện tại thì chưa có bất kỳ một chế tài xử phạt nào đối với hành vi tự ý ghi âm, ghi hình này.
Quy định nêu trên chỉ được quy định tại Bộ luật tố tụng dân sự và Luật tố tụng hành chính còn Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 ở thời điểm hiện tại cũng không có bất kỳ quy định nào về việc cấm không được ghi âm, ghi hình tại phiên Tòa.
Còn đối với hành vi livestream thì các Bộ luật tố tụng và Luật tố tụng hiện hành không hề có bất cứ quy định nào về hành vi này. Tuy nhiên việc dùng mạng xã hội tự ý phát tán các hình ảnh của người khác trên các trang mạng xã hội là một hành vi vi phạm các quy định về bảo vệ quyền nhân thân của một cá nhân theo Điều 32 Bộ luật dân sự năm 2015, cụ thể Bộ luật dân sự 2015 quy định rằng mỗi cá nhân đều có quyền bất khả xâm phạm đối với hình ảnh của mình. Việc sử dụng hình ảnh của cá nhân bắt buộc phải được sự đồng ý của cá nhân đó trừ một số những trường hợp vì lợi ích quốc gia, lợi ích dân tộc, lợi ích công cộng hoặc sử dụng những hình ảnh từ các hoạt động công cộng mà không làm ảnh hưởng đến nhân phẩm, danh dự và uy tín của người có hình ảnh.
Tại khoản 1 Điều 101 Nghị định số 15/2020/NĐ-CP quy định về việc sử dụng thông tin của người khác trên mạng xã hội mà không có sự đồng ý của người có thông tin nhằm mục đích xuyên tạc, vu khống, xúc phạm đến danh dự, uy tín của cá nhân, cơ quan, tổ chức. Mức hình phạt đối với hành vi này là từ 10 triệu đồng đến 20 triệu đồng.
Như vậy, với những hành vi tự ý livestream tại phiên Tòa mà có những thông tin giả mạo, những thông tin sai sự thật, những thông tin xuyên tạc, vu khống, xúc phạm đến uy tín của cơ quan, tổ chức, danh dự nhân phẩm của cá nhân thì có thể bị xử phạt theo quy định tại Khoản 1 Điều 101 tại Nghị định nêu trên.
Đối với nhà báo khi tự ý livestream, ghi âm, ghi hình tại phiên Tòa
Theo quy định tại điểm d Khoản 2 Điều 25 Luật báo chí năm 2016 quy định việc nhà báo được thực hiện các hoạt động nghiệp vụ báo chí tại các phiên xét xử công khai là một trong những quyền của nhà báo. Và việc ghi âm ghi hình tại phiên Tòa cũng không thuộc trường hợp nhà báo cấm không được làm theo quy định tại Điều 9 Luật báo chí.
Trong phiên họp chuyên đề pháp luật diễn ra vào ngày 15/8/2022 vừa qua, thì Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã có ý kiến đề xuất về dự thảo Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính đối với những hành vi cản trở các hoạt động tố tụng tại phiên tòa xét xử. Trong nội dung dự thảo này có đề xuất, đối với những hành vi nhà báo tự ý ghi âm, ghi hình, ghi hình có âm thanh hoặc phát tán trực tiếp trên các nền tảng mạng xã hội (không gian mạng) hội đồng xét xử mà không được sự đồng ý, cho phép của Chủ tọa phiên Tòa thì có thể sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính với mức phạt lên tới 7 triệu đến 15 triệu đồng.
Tuy nhiên quy định này trong dự thảo pháp lệnh cũng chưa được rõ ràng và chưa có sự hướng dẫn cụ thể nên rất dễ dẫn đến việc khi đưa quy định này vào áp dụng có thể dẫn đến việc áp dụng sai. Bởi vì trong nội dung dự thảo đã có quy định như thế nào là hành vi cản trở hoạt động tố tụng, theo đó hành vi cản trở tố tụng bị xử phạt vi phạm hành chính là những hành vi có lỗi của một cá nhân hay tổ chức mà cá nhân, tổ chức này thực hiện những hành vi vi phạm các quy định trong Bộ luật tố tụng dân sự, Bộ luật tố tụng hình sự và Luật tố tụng hành chính. Nhưng tại thời điểm hiện chỉ có mình Bộ luật tố tụng dân sự và Luật tố tụng hành chính có quy định về việc ghi âm ghi hình bắt buộc phải được sự đồng ý của Hội đồng xét xử còn Bộ luật tố tụng hình sự thì không.
Theo đó, với quy định nêu trên thì khi áp dụng sẽ có những vướng mắc về việc sẽ áp dụng hình thức xử phạt vi phạm hành chính này với tất cả các phiên Tòa xét xử hay chỉ áp dụng với những phiên Tòa xét xử vụ án dân sự và vụ án hành chính.
Khi nào băng ghi âm là chứng cứ trong vụ án dân sự?
Quy định tại Điều 93 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 thì: “Chứng cứ trong vụ việc dân sự là những gì có thật được đương sự và cơ quan, tổ chức, cá nhân khác giao nộp, xuất trình cho Tòa án trong quá trình tố tụng hoặc do Tòa án thu thập được theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và Tòa án sử dụng để làm căn cứ để xác định các tình tiết khách quan của vụ án cũng như xác định yêu cầu hay sự phản đối của đương sự là có căn cứ và hợp pháp”.
Tại Điều 94 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định về nguồn chứng cứ được thu thập từ các nguồn sau:
- Tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được, dữ liệu điện tử;
- Vật chứng;
- Lời khai của đương sự;
- Lời khai của người làm chứng;
- Kết luận giám định;
- Biên bản ghi kết quả thẩm định tại chỗ;
- Kết quả định giá tài sản, thẩm định giá tài sản;
- Văn bản ghi nhận sự kiện, hành vi pháp lý do người có chức năng lập;
- Văn bản công chứng chứng thực;
- Các nguồn khác mà pháp luật có quy định.
Như vậy, với quy định này có thể thấy băng ghi âm là tài liệu nghe được và được coi là một nguồn chứng cứ. Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 95 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 về xác định chứng cứ thì “Tài liệu nghe được, nhìn được được coi là chứng cứ nếu được xuất trình kèm theo văn bản trình bày của người có tài liệu đó về xuất xứ của tài liệu nếu họ tự thu âm, thu hình hoặc văn bản có xác nhận của người đã cung cấp cho người xuất trình về xuất xứ của tài liệu đó hoặc văn bản về sự việc liên quan tới việc thu âm, thu hình đó”.
Theo đó, có thể hiểu đoạn băng ghi âm cuộc trao đổi giữa người hỏi và đối tác làm ăn chỉ được coi là chứng cứ khi người này xuất trình được kèm theo văn bản xác nhận xuất xứ của đoạn băng ghi âm hoặc văn bản về sự việc liên quan đến việc ghi âm.
Từ phân tích trên có thể thấy, để được Tòa án chấp nhận băng ghi âm của người hỏi là chứng cứ của vụ án thì đoạn băng ghi âm đó phải đáp ứng được các điều kiện trên, nếu không đáp ứng được các điều kiện này, đoạn băng ghi âm do người hỏi ghi lại chỉ được xem là tài liệu có liên quan đến vụ án, có giá trị tham khảo chứ không có giá trị chứng minh trong việc xác định sự thật khách quan của vụ án.
Thông tin liên hệ:
Trên đây là những vấn đề liên quan đến “Mức phạt khi Livestream, ghi âm, ghi hình phiên tòa năm 2022”. Luật sư Quảng Ninh tự hào sẽ là đơn vị hàng đầu hỗ trợ mọi vấn đề cho khách hàng liên quan đến tư vấn pháp lý, thủ tục giấy tờ liên quan đến trình tự, thủ tục Trích lục quyết định ly hôn hoặc tư vấn soạn thảo mẫu đơn xin tạm ngừng kinh doanh… Nếu quý khách hàng còn phân vân, hãy đặt câu hỏi cho Luật sư Quảng Ninh thông qua số hotline 0833102102 chúng tôi sẽ tiếp nhận thông tin và phản hồi nhanh chóng.
Mời bạn xem thêm bài viết:
- Hướng dẫn soạn thảo đơn mẫu ký sự tình tại Quảng Ninh năm 2022
- Dịch vụ tư vấn giải quyết tranh chấp nhận quyền sở hữu nhà tại Quảng Ninh
- Năm 2022 khi dán màu lên biển số xe bị phạt như thế nào?
Câu hỏi thường gặp
Căn cứ vào Điều 255 và khoản 2 Điều 254 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 như sau:
Nghe băng ghi âm, đĩa ghi âm, xem băng ghi hình, đĩa ghi hình, thiết bị khác chứa âm thanh, hình ảnh
Theo yêu cầu của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, người tham gia tố tụng khác, Kiểm sát viên hoặc khi xét thấy cần thiết, Hội đồng xét xử cho nghe băng ghi âm, đĩa ghi âm, xem băng ghi hình, đĩa ghi hình, thiết bị khác chứa âm thanh, hình ảnh tại phiên tòa, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 254 của Bộ luật này.
Công bố tài liệu, chứng cứ của vụ án
Trường hợp đặc biệt cần giữ bí mật nhà nước, giữ gìn thuần phong mỹ tục của dân tộc, giữ bí mật nghề nghiệp, bí mật kinh doanh, bí mật cá nhân, bí mật gia đình, bảo vệ người chưa thành niên theo yêu cầu của đương sự thì Hội đồng xét xử không công bố tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án.
Như vậy, căn cứ vào tình hình thực tế, nếu xét thấy cần thiết thì Hội đồng xét xử có thể cho nghe băng ghi âm, ghi hình trừ trường hợp tại khoản 2 Điều 254 nêu trên.
Những trường hợp ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh bao gồm:
– Việc hỏi cung bị can tại cơ sở giam giữ hoặc trụ sở Cơ quan có thẩm quyền điều tra phải được ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh.
– Các trường hợp có thể ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh:
+ Hỏi cung bị can tại địa điểm khác được ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh theo yêu cầu của bị can hoặc của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng theo quy định tại khoản 6 Điều 183 Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS);
+ Trực tiếp tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố của cơ quan, tổ chức, cá nhân theo quy định tại khoản 1 Điều 146 BLTTHS.
Khi người thực hiện việc ghi âm, sử dụng nội dung ghi âm hay ghi âm với mục đích trái pháp luật như; nhằm xâm phạm đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, xâm phạm danh dự, nhân phẩm,hạ thấp uy tín của người khác.…. thì khi đó, việc ghi âm lén được coi là trái pháp luật.