Xin chào Luật sư Quảng Ninh. Hiện tại tôi có thắc mắc liên quan đến việc xử phạt hành vi đánh bạc, mong được luật sư hỗ trợ. Cụ thể là tuần vừa qua chú em không đánh bạc nhưng có cho mượn sân nhà để hội bạn đánh bạc thì có công an ập đến bắt giữ hết những người trong bàn bạc đó. Em có thắc mắc rằng trong trường hợp này của chú em dù không chơi bài nhưng việc chứa chấp đánh bạc bị phạt bao nhiêu tiền? Liệu hành vi này của chú em có bị truy cứu trách nhiệm hình sự, bị phạt tù hay không? Đồng thời, trên bàn bạc hôm đó, mấy người chơi có đánh bài ăn tiền nhưng không rõ số tiền là bao nhiêu thì họ sẽ bị xử phạt như thế nào? Mong được Luật sư hỗ trợ, tôi xin chân thành cảm ơn!
Cảm ơn bạn đã gửi câu hỏi đến Luật sư Quảng Ninh. Chúng tôi sẽ giải đáp thắc mắc nêu trên cho bạn tại nội dung bài viết dưới đây, hi vọng bài viết mang lại nhiều điều bổ ích đến bạn.
Căn cứ pháp lý
- Nghị định 144/2021/NĐ-CP
- Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017
Người có hành vi đánh bài ăn tiền thì mức xử phạt hành chính là bao nhiêu?
Căn cứ theo khoản 2 Điều 28 Nghị định 144/2021/NĐ-CP quy định về hành vi đánh bạc trái phép như sau:
“Điều 28. Hành vi đánh bạc trái phép
2. Phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 2.000.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây:
a) Đánh bạc trái phép bằng một trong các hình thức như xóc đĩa, tá lả, tổ tôm, tú lơ khơ, tam cúc, 3 cây, tứ sắc, đỏ đen, cờ thế, binh ấn độ 6 lá, binh xập xám 13 lá, tiến lên 13 lá, đá gà, tài xỉu hoặc các hình thức khác với mục đích được, thua bằng tiền, tài sản, hiện vật;
b) Đánh bạc bằng máy, trò chơi điện tử trái phép;
c) Cá cược trái phép trong hoạt động thi đấu thể thao, vui chơi giải trí hoặc các hoạt động khác.”
Chứa chấp đánh bạc bị phạt bao nhiêu tiền năm 2023?
Căn cứ theo khoản 3 và khoản 4 Điều 28 Nghị định 144/2021/NĐ-CP quy định về hành vi đánh bạc trái phép như sau:
“Điều 28. Hành vi đánh bạc trái phép
3. Phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây:
a) Nhận gửi tiền, cầm đồ, cho vay trái phép tại sòng bạc, nơi đánh bạc khác;
b) Bán số lô, số đề, bảng đề, ấn phẩm khác cho việc đánh lô, đề, giao lại cho người khác để hưởng hoa hồng;
c) Giúp sức, che giấu việc đánh bạc trái phép;
d) Bảo vệ các điểm đánh bạc trái phép;
đ) Chủ sở hữu, người quản lý máy trò chơi điện tử, chủ cơ sở kinh doanh, người quản lý cơ sở kinh doanh trò chơi điện tử hoặc các cơ sở kinh doanh, dịch vụ khác thiếu trách nhiệm để xảy ra hoạt động đánh bạc ở cơ sở do mình quản lý.
4. Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với một trong những hành vi tổ chức đánh bạc sau đây:
a) Rủ rê, lôi kéo, tụ tập người khác để đánh bạc trái phép;
b) Dùng nhà, chỗ ở, phương tiện, địa điểm khác của mình hoặc do mình quản lý để chứa chấp việc đánh bạc;
c) Đặt máy đánh bạc, trò chơi điện tử trái phép;
d) Tổ chức hoạt động cá cược ăn tiền trái phép.”
Như vậy việc chú của bạn tuy không tham gia đánh bạc và thu tiền cho việc vào sân nhà đánh bạn nhưng hành vi cho mượn sân để người khách đánh bạc có thể quy vào hành vi giúp sức, che giấu việc đánh bạc trái phép và hành vi dùng nhà, chỗ ở, phương tiện, địa điểm khác của mình hoặc do mình quản lý để chứa chấp việc đánh bạc. Mức phạt vi phạm hành chính mà chú bạn phải chịu có thể từ 2.000.000 đồng lên đến 10.000.000 đồng.
Dùng nhà, chỗ ở của mình để chứa chấp cho hành vi đánh bạc thì có phải chịu hình phạt tù hay không?
Theo Điều 322 Bộ luật Hình sự 2015 quy định về tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc quy định như sau:
“Điều 322. Tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc
1. Người nào tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc trái phép thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 300.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
a) Tổ chức cho 10 người đánh bạc trở lên trong cùng một lúc mà tổng số tiền, hiện vật dùng đánh bạc trị giá 5.000.000 đồng trở lên hoặc tổ chức 02 chiếu bạc trở lên trong cùng một lúc mà tổng số tiền, hiện vật dùng đánh bạc trị giá 5.000.000 đồng trở lên;
b) Sử dụng địa điểm thuộc quyền sở hữu hoặc quản lý của mình để cho 10 người đánh bạc trở lên trong cùng một lúc mà tổng số tiền, hiện vật dùng đánh bạc trị giá 5.000.000 đồng trở lên hoặc cho 02 chiếu bạc trở lên trong cùng một lúc mà tổng số tiền, hiện vật dùng đánh bạc trị giá 5.000.000 đồng trở lên;
c) Tổng số tiền, hiện vật dùng đánh bạc trong cùng 01 lần trị giá 20.000.000 đồng trở lên;
d) Có tổ chức nơi cầm cố tài sản cho người tham gia đánh bạc; có lắp đặt trang thiết bị phục vụ cho việc đánh bạc hoặc phân công người canh gác, người phục vụ khi đánh bạc; sắp đặt lối thoát khi bị vây bắt, sử dụng phương tiện để trợ giúp cho việc đánh bạc;
đ) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về một trong các hành vi quy định tại Điều này hoặc hành vi quy định tại Điều 321 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều 321 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm:
a) Có tính chất chuyên nghiệp;
b) Thu lợi bất chính 50.000.000 đồng trở lên;
c) Sử dụng mạng internet, mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc phương tiện điện tử để phạm tội;
d) Tái phạm nguy hiểm.”
Theo đó, nếu người cho mượn nhà, chỗ ở của mình để chứa chấp đánh bạc thì có thể bị phạt tù 01 năm đến 05 năm. Nếu mức độ tổ chức chuyên nghiệp và thu lợi bất chính trên 50.000.000 đồng thì mức phạt tù từ 05 năm đến 10 năm. Theo như thông tin bạn cung cấp thì chưa rõ mức độ vi phạm cho hình vi đánh bạc tại sân nhà của chú bạn như thế nào (bao nhiêu người đánh, giá trị đánh bạc từ bao nhiêu từ tiền trở lên) và cũng chưa rõ chú bạc có thực sự không tổ chức cho đánh bạn hay không nên không thể trả lời rõ được. Tuy nhiên, bạn có thể tham khảo khung hình phạt trên đây để tham khảo.
Các yếu tố cấu thành tội đánh bạc
Thứ nhất, chủ thể của tội phạm
Chủ thể của tội đánh bạc không phải chủ thể đặc biệt, chỉ cần đến một độ tuổi nhất định theo luật định và có năng lực trách nhiệm hình sự đều có thể là chủ thể của tội phạm này.
Điều 12 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định về tuổi chịu trách nhiệm hình sự. Theo đó:
+ Cá nhân từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội mà mình gây ra.
+ Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng theo pháp luật quy định.
Như vậy, cứ đủ 16 tuổi trở lên là chủ thể của tội đánh bạc nếu có hành vi vi phạm đủ cấu thành tội đánh bạc.
Thứ hai, mặt chủ quan của tội phạm
Tội phạm này thực hiện với lỗi cố ý. Động cơ phạm tội là sát phạt nhau, tư lợi và mục đích là nhằm lấy tiền, tài sản từ người thua bạc.
Thứ ba, khách thể của tội phạm
Đánh bạc là hành vi bị xã hội lên án và nghiêm trị. Nó ảnh hưởng trực tiếp tới an ninh trật tự công cộng, ảnh hưởng tới cuộc sống của chính mỗi gia đình, nếp sống văn minh của xã hội vì đây được xem là một tệ nạn xã hội.
Thứ tư, mặt khách quan của tội phạm
- Hành vi khách quan:
– Có sự thỏa thuận thắng thua bằng tiền hay bằng hiện vật có giá trị từ năm triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng.
Trường hợp tiền hay hiện vật có giá trị dưới năm triệu đồng thì phải thuộc trường hợp đã bị kết án về tội đánh bạc hoặc tội tổ chức đánh bạc chưa được xóa án tích mà còn vi phạm thì mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội này. Đây là dấu hiệu cấu thành cơ bản của tội đánh bạc.
– Trường hợp người phạm tội đã có hành vi đánh bạc trái phép và tiền hay hiện vật đánh bạc có giá trị từ 5 triệu đồng trở lên.
Về tiền và hiện vật đánh bạc được xác định chính là tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc thu giữ ở chiếu bạc, thu được trong người đánh bạc hay ở những nơi khác mà đủ cơ sở để xác định đã được hay sẽ được dùng để đánh bạc. Hành vi đánh bạc cấu thành tội phạm khi giá trị tiền đánh bạc từng lần có trị giá từ 5.000.000 đồng trở lên.
– Phân biệt các trường hợp khi xác định tiền, giá trị hiện vật dùng đánh bạc:
+ Trường hợp tổng số tiền, hiện vật dùng đánh bạc của mỗi lần đánh bạc bằng hoặc trên mức tối thiểu (5.000.000 đồng) để truy cứu trách nhiệm hình sự thì người đánh bạc sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội đánh bạc đối với lần đánh đó. Ví dụ: Anh A, cô B, ông C, anh D đánh bài tiến lên mỗi lần đánh người thua phải trả 7.000.000 đồng thì A, B, C, D sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội đánh bạc.
+ Trường hợp đánh bạc từ 2 lần trở lên mà mỗi lần đánh có tổng tiền, giá trị hiện vật bằng hoặc trên mức tối thiểu thì người đánh bạc phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội đánh bạc kèm với tình tiết tăng nặng là phạm tội 2 lần trở lên quy định ở Điều 52 Bộ luật hình sự 2015.
+ Trường hợp có nhiều người cùng tham gia đánh bạc với nhau thì việc xác định tiền, giá trị hiện vật dùng đánh bạc đối với mỗi người là tổng số tiến, giá trị hiện vật của tất cả người cùng đánh bạc lúc đó.
+ Trường hợp đánh bạc mà tổng số tiền để đánh bạc của từng lần đánh đều ở dưới mức tối thiểu 5.000.000 đồng (chưa từng bị kết án về một trong các tội đánh bạc hoặc tổ chức đánh bạc hoặc chưa được xóa án tích) thì người đánh bạc không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội đánh bạc.
+ Trường hợp một lần chơi lô đề, cá độ bóng đá, đua ngựa…để tính là một lần đánh bạc chính là tham gia chơi trong một lô đề, tham gia cá độ trong một kỳ đua ngựa hay một trận bóng đá…người chơi chia làm nhiều đợi để chơi thì trách nhiệm hình sự được xác định cho người chơi một lần đánh chính là tổng số tiền, giá trị hiện vật dùng để chơi trong tất cả đợt đó.
Lưu ý: Khi xác định tội đánh bạc đối với người đánh bạc không được tính tổng số tiền, giá trị hiện vật dùng để đánh bạc củạ tất cả các lần đánh bạc, mà phải căn cứ vào từng lần đánh bạc riêng để xem xét như trên.
- Hậu quả:
Tội đánh bạc chỉ quy định hành vi khách quan mà không bắt buộc phải có hậu quả xảy ra mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Biết là đánh bạc đem lại nhiều hậu quả ảnh hưởng nghiêm trọng tới cho gia đình xã hội như hạnh phúc gia đình tan vỡ, khiến cho tình trạng tội phạm có thể diễn ra nhiều hơn như trộm cắp, cướp, giết người, gây rối trật tự công cộng… Pháp luật không quy định hậu quả là yếu tố định tội vì hậu quả mà tội đánh bạc gây ra có thể cấu thành tội phạm khác thậm chí có yếu tố nguy hiểm hơn tội đánh bạc. Lúc đó, đánh bạc mà gây ra những hành vi gây tội khác thì người phạm tội bị truy cứu đối với tội tương ứng theo luật định.
Thông tin liên hệ:
Vấn đề “Chứa chấp đánh bạc bị phạt bao nhiêu tiền năm 2023?” đã được Luật sư Quảng Ninh giải đáp thắc mắc ở bên trên. Với hệ thống công ty Luật sư Quảng Ninh chuyên cung cấp dịch vụ pháp lý trên toàn quốc. Chúng tôi sẽ giải đáp mọi thắc mắc của quý khách hàng liên quan tới thủ tục Đăng ký khai sinh khi bố mẹ chưa kết hôn. Với đội ngũ luật sư, chuyên viên, chuyên gia dày dặn kinh nghiệm, chúng tôi sẽ giúp quý khách giải quyết vấn đề một cách nhanh chóng, thuận tiện, tiết kiệm chi phí và ít đi lại. Chi tiết vui lòng liên hệ tới hotline: 0833102102
Mời bạn xem thêm bài viết:
- Dịch vụ công chứng tại nhà tại Quảng Ninh nhanh chóng, uy tín
- Dịch vụ tư vấn giải quyết tranh chấp nhận quyền sở hữu nhà tại Quảng Ninh
- Năm 2022 khi dán màu lên biển số xe bị phạt như thế nào?
Câu hỏi thường gặp
Phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 2.000.000 đồng đối với một trong những hành vi đánh bạc sau đây:
a) Đánh bạc trái phép bằng một trong các hình thức như xóc đĩa, tá lả, tổ tôm, tú lơ khơ, tam cúc, 3 cây, tứ sắc, đỏ đen, cờ thế hoặc các hình thức khác mà được, thua bằng tiền, hiện vật;
b) Đánh bạc bằng máy, trò chơi điện tử trái phép;
Người nào đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật trị giá từ 5.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 5.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc hành vi quy định tại Điều 322 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều 322 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm
Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm:
a) Có tính chất chuyên nghiệp;
b) Tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc trị giá 50.000.000 đồng trở lên;
c) Sử dụng mạng internet, mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử để phạm tội;
d) Tái phạm nguy hiểm.